13/09/2022

Bệnh nghiến răng khi ngủ 11

Chứng nghiến răng lúc ngủ không chỉ ảnh hưởng đến hàm răng của bạn mà còn gây ra tiếng động khiến người nằm cạnh khó chịu. Nó xảy ra khi các cơ cổ họng thư giãn vào ban đêm và chặn đường hô hấp, làm đứt quãng khá thở. Tật nghiến răng được khái niệm là “hoạt động lặp đi lặp lại của cơ hàm, đặc thù bởi sự siết chặt hoặc nghiến của răng và/hoặc bởi sự giằng và đẩy của hàm dưới”. Hoạt động này có thể tạo nên âm thanh ken két hoặc không.

Nghiến răng là một hoạt động có khả năng gây quá tải hệ thống nhai. Ngày nay, nguyên nhân cốt yếu gây bệnh vẫn chưa được biết rõ. Tuy nhiên, bệnh thường đi kèm với tình huống stress, rối loạn khớp cắn, dị ứng và liên quan đến tư thế ngủ. Không may, hiện nay có rất ít dữ liệu về nguyên nhân và tác động của bệnh. Bởi vậy, việc nhận định và điều trị thận trọng là phương pháp tốt nhất để đưa ra những chỉ định đúng. Nghiến răng khi ngủ: Xuất hiện ở cả người to và trẻ em. Thường là hoạt động nghiến qua lại.

Nghiến răng không thực hiện chức năng của hệ thống nhai và có thể gây chấn thương khớp cắn. Khớp cắn ảnh hưởng lên chức năng của cơ, qua đấy ảnh hưởng tới khớp thái dương hàm. Vì vậy, bất kỳ sự đổi thay nào trong khớp cắn đều ảnh hưởng đến cả cơ và khớp. Sai khớp cắn chính là một trong những nguyên do phổ thông nhất gây tật nghiến răng. Hậu quả của nó có thể gây ra đau khớp thái dương hàm. Nguyên do nghiến răng lúc ngủ chưa thực sự rõ ràng, hãy cùng phân tích một số nguyên do gây nghiến răng khi ngủ.

- Thuốc,chất kích thích

Một số tác dụng phụ của những loại thuốc và thuốc gây nghiện làm tăng nguy cơ nghiến răng như: Thuốc chủ vận và đối kháng dopamine. Thuốc chống trầm cảm ba vòng. Các chất ức chế tái hấp thụ serotonin có chọn lọc. Rượu, cocaine,...

- Nghề nghiệp

Một số nghề nghiệp có đòi hỏi đặc biệt có thể gây nên nghiến răng hay cắn chặt răng. Ví dụ: Nghệ sĩ piano cắn chặt răng lúc giữ đàn lúc chơi; công nhân khuân vác cắn chặt răng để gồng sức; nghệ sĩ trình diễn xiếc dùng răng để giữ người trên không trung,...

- Bản năng

Một số nghiên cứu cho rằng các thói quen này thuộc về bản năng, là hoạt động tập tính của loài có vú. Mục đích của nó là để duy trì sự sắc bén của hàm răng.

- Yếu tố tại chỗ

Cản trở cắn khớp có thể là vấn đề gây bệnh. Chúng cản trở đường đi của đi lại nhai bình thường. Nguyên do có thể ở một răng hoặc một nhóm răng. Ví dụ: khi răng khôn hàm trên mất, răng khôn hàm dưới mọc trồi. Khi cắn lại, hàm dưới phải đưa ra trước nhiều hơn để đóng hàm. Điều này làm lệch lạc đi lại hàm bình thường.

- Di truyền

Các người có thành viên trong gia đình đang hoặc từng mắc bệnh nghiến răng lúc ngủ có nguy cơ cũng bị bệnh này. Nghiên cứu cho thấy rằng có thể có một chừng độ liên quan đến di truyền trong việc tăng trưởng tật nghiến răng. 21 – 50% Các người bị nghiến răng ban đêm có thành viên trong gia đình từng mắc bệnh trước đây. Điều này cho thấy yếu tố di truyền có liên quan đến bệnh.

- Tâm lý

Stress các nghiên cứu báo cáo cho thấy nhân tố tâm lý có nguy cơ ảnh hưởng đáng kể đến bệnh, chủ yếu là lối sống căng thẳng. Chứng cứ về vấn đề này đang gia tăng nhưng vẫn chưa có kết luận. Căng thẳng xúc cảm được coi là yếu tố kích hoạt chính. Nghiến răng ban đêm có thể là sự đáp ứng đối với căng thẳng ban ngày đã hoặc đang diễn ra.

Căng thẳng có thể xảy ra ở những người làm việc nhiều, bị áp bức; sinh viên đang trong mùa thi. Căng thẳng đi kèm với lo âu, sự kìm nén có thể kích hoạt những hoạt động của não bộ. Điều này làm tăng kích thích thần kinh, có thể gây nên toàn bộ các phản ứng của nghiến răng. Nghiến răng thường gặp ở tuổi trẻ và thường biến mất lúc to hơn, những người mạnh mẽ, dễ khích động có khả năng mắc bệnh cao hơn.

- Một số nguyên nhân khác

Dị ứng: Do nhiễm ký sinh trùng đường ruột, rối loạn tiêu hóa hay dị ứng thức ăn. Đây là các nguyên do có thể của nghiến răng trầm trọng ở trẻ em. Tình huống thiếu vitamin, mất thăng bằng enzym cũng có tác động đến bệnh. Rối loạn dinh dưỡng, tiết niệu, nội tiết cũng là những yếu tố dễ dàng gây bệnh, phổ biến ở trẻ em hơn người lớn.

Những rối loạn tâm thần trung ương có thể can hệ đến bệnh: Bệnh Down, bệnh Huntington, nhiễm khuẩn màng não, stress sau chấn thương, chứng bại não, động kinh, bệnh Leigh, bệnh Parkinson, hội chứng Rett,...

>>> Liên kết khác: